Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionism)
là một khuynh hướng của nghệ thuật tạo hình, kiến trúc, văn học và điện ảnh
hình thành và phát triển ở Đức từ 1905 đến 1920, lan rộng ảnh hưởng trong văn
hoá một số nước khác ở châu Âu. Nảy sinh như là sự phản ứng lại những khủng
hoảng xã hội đầu thế kỷ XX (chiến tranh thế giới 1914 – 1918), chủ nghĩa biểu
hiện là tiếng nói của những con người công khai phản đối chiến tranh và tình
trạng vô hồn của cuộc sống, chống lại sự áp chế của các cơ cấu xã hội đối với
cá nhân và sự xơ cứng của những nguyên tắc “cổ điển” về nghệ thuật. Trong lĩnh
vực điện ảnh, Chủ nghĩa biểu hiện đã mang lại một hình thức tự sự vô cùng độc
đáo và mới lạ, xoá bỏ ấn tượng về sự độc tôn của “điện ảnh Hollywood cổ điển”,
đa dạng hoá cách nhìn và cách thể hiện của các nghệ sĩ đối với hiện thực.
Sau
khi Thế chiến I kết thúc, cảm giác thất vọng cùng nỗi hoang mang về một thế
giới đang đổ vỡ và lụi tàn dường như đã lan thấm sâu xa vào tâm hồn các nhà
văn, các hoạ sĩ, các nhà làm phim của nước Đức. Cùng thời điểm ấy, tình trạng
khủng hoảng của đời sống kinh tế - xã hội , những cấm đoán và định kiến của thị
trường điện ảnh Mỹ cũng như châu Âu, sự “lên ngôi” và bành trướng của điện ảnh
kinh điển Hollywood… càng khiến cho cánh cửa vốn hẹp với phim Đức lại ngày một
hẹp hơn. Giữa lúc sóng gió ấy, Decla - một công ty điện ảnh nhỏ (tồn tại độc
lập với công ty lớn của chính phủ - UFA) đã mạnh dạn đầu tư làm một phim
theo phong cách phi truyền thống – phong cách của Chủ nghĩa biểu hiện (do
hai tác giả trẻ Carl Mayer và Hans Janowitz viết kịch bản và ba họa sĩ dàn dựng
đồ họa). Thật bất ngờ, bộ phim “phi Hollywood” ấy - The Cabinet of
Dr. Caligari (1920) - với chi phí làm phim không cao lại có
được thành công vang dội ở Berlin, rồi sau đó ở Mỹ, Pháp và các nước khác.
Tiếng vang của Caligari cùng với một số bộ phim khác
cùng phong cách đã cuốn các nhà làm phim Đức vào một trào lưu rộng lớn
mang tinh thần của Chủ nghĩa biểu hiện. Lúc này, không chỉ các công ty nhỏ mà
ngay cả các tập đoàn lớn (như UFA) cũng đầu tư làm “phim biểu hiện”, vì những
phim này cạnh tranh được với các phim của Mỹ, Pháp... Những phim khá nhất của
Đức tại thời điểm đó đều được đánh giá là những phim xuất sắc của thế
giới: The Cabinet of Dr. Caligari (1920), Nosferatu (1922), The
Nibelungen (1923 - 1924), Tartuff (1925), Metropolis (1927)…
Vào giữa thập niên 20, với trào lưu mới mang màu sắc riêng của dân tộc, điện
ảnh Đức đã vươn đến một đỉnh cao trong lịch sử phát triển của mình trên sự
thống nhất hài hoà cả hai phương diện: hiệu quả kinh doanh và thành tựu nghệ
thuật.
Một đặc điểm nổi bật của phong cách phim biểu hiện Đức chính là tinh
thần “phản cổ điển”, đồng thời, “phản hiện thực chủ nghĩa”. Cái mới, tính
sáng tạo của nó trước hết được xây dựng trên sự phủ định quyết liệt những mô
thức đã được quy phạm hoá, giá trị hoá trước đó của phim ảnh Hollywood nói
riêng và phim kinh điển thế giới nói chung. Tự sự truyền thống (mà Citizen
Kane, Cassablanca, The Wizard of Oz… là những
dẫn chứng tiêu biểu) thực chất là cuộc kiếm tìm cái hữu lý và tính khả
giải của cuộc sống - nơi mọi biến cố, xung đột, khủng hoảng… được phát
lộ ở hồi đầu tiên thì bằng cách nào đó sẽ được giải quyết ở hồi cuối cùng như
là một hành trình khách quan và tất yếu. Nguyên tắc của “tính liên tục cơ bản”
và “tự sự theo tuyến tính” trở thành phong cách tiêu chuẩn ở Hollywood vào
thập niên 20.
Tuy
nhiên, lối kể chuyện đề cao tính khách quan và tính nhân quả đó dường như đã bị
phá vỡ “một cách ngoạn mục” bởi quan niệm và cách làm phim của các tác giả theo
phong cách biểu hiện chủ nghĩa. Họ không chỉ là tác giả của những cách tân hình
thức đơn thuần, họ còn là những người nỗ lực tìm ra một cách nhìn mới
với cái hiện thực mà lâu nay đã luôn chỉ được nhìn theo một cách duy nhất…
Trong bộ phim được coi là đầu tiên và tiêu biểu cho trào lưu này, The
cabinet of Dr. Caligari (Robert Wiene), người
đọc dường như bị “lạc lối” cùng “người kể chuyện” trong một cánh rừng đầy bóng
tối của ảo ảnh và ác mộng... Những cảnh quay cuối cùng hé mở một sự thật “gây
sốc” về người kể chuyện: thay vì là “Chúa trời” hay “ông biết tuốt” như lệ
thường, anh ta lại chính là một kẻ điên, một người mất khả năng kiểm
soát chính mình chứ chưa nói đến kiểm soát thực tại quanh mình. Điều này
khiến cho toàn bộ các tình tiết bí ẩn ly kỳ (về án mạng, về thủ phạm, về nạn
nhân) được dựng lên công phu trước đó biến thành sự giễu nhại với loại phim
trinh thám cổ điển: Cái được phơi bày không phải là sự thật mà chỉ là nỗi hoài
nghi về sự thật; tính nhân quả trở thành một “phạm trù rỗng” nhường chỗ cho sự
phi lí đến thắt lòng. Chính việc lựa chọn điểm nhìn đặc biệt ấy đã chi phối
mạnh mẽ đến nghệ thuật dựng phim (editing) và dàn cảnh (mise-en-scene)
mang đậm tính chất biểu hiện chủ nghĩa: thế giới không còn là sự sắp xếp ngăn
nắp và vừa vặn của các kiến trúc - hình khối như những gì chúng ta vẫn hình dung.
Từng ngôi nhà, từng bức tường, mỗi hàng cây, mỗi cánh cửa…đều bị xô đẩy, méo
lệch và thiếu cân đối một cách kỳ quặc bên những sắc màu chói gắt đầy kích động
của trang phục diễn viên. Mặt khác, bằng lối dàn dựng thiên về “không gian dẹt”
(shallow space) thiếu hẳn chiều sâu kết hợp với “ánh sáng ven” (side
lighting) thường chỉ rọi đến một phần nhỏ trên khuôn mặt con người hoặc bề
mặt vật thể, Caligari dường như chỉ còn là một thế giới
phẳng hai chiều và ngập tràn bóng tối. Như nhiều bộ phim biểu hiện chủ nghĩa
khác, nó không chỉ giản đơn phản chiếu đời sống tâm lý bất thường hay sự thiểu
năng tri giác của một cá thể nhân vật: Phía sau thế giới méo lệch dị thường và
không thể nắm bắt kia là cảm quan hoang mang và bất ổn của con người
nói chung trước thực tại hỗn độn đầy tai biến ở “phía bên kia” nền văn
minh hiện đại (phía của chiến tranh, tội ác, của sự xói mòn nhân tính và lòng
tin…).
Cảnh trong phim The cabinet of Dr. Caligari
Cảnh trong phim Metropolis
Như
vậy, việc chủ động phá vỡ tính trong sáng hài hoà của hình thức tự sự ở các nhà
làm phim biểu hiện chủ nghĩa thực chất là nỗ lực cấu trúc nên một hiện thực
mới: hiện thực tâm linh sâu thẳm và thấm đẫm tính chủ quan của con
người hiện đại. Hiện thực ấy khác về chất với thứ hiện
thực tường minh, khách quan và duy lý trong phim của các nhà kinh điển Hollywood mà
chúng ta đã nhắc ở trên. Đồng thời, kiểu dựng phim cách điệu cực độ
để tái tạo một thực tại đầy xúc cảm bên trong (hơn là tái
hiện thực tại trên bề mặt) cũng bộc lộ mạnh mẽ quan
niệm đề cao tính nghệ thuật của điện ảnh, tính sáng
tạo của cá nhân nhà làm phim. Nói cách khác, đó là sự đề cao “cái biểu
hiện” trong tương quan với “cái được biểu hiện” như là một đối trọng với quan
niệm làm phim cổ điển.
Đến
cuối thập niên 20, để cố gắng chống lại sự cạnh tranh dữ dội của phim nhập khẩu
từ Hollywood, người Đức cũng bắt đầu mô phỏng các sản phẩm của nước Mỹ. Chính
những bộ phim ấy đã dần dẫn đến sự tàn lụi của Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionist
movement) với tư cách là một trào lưu trong điện ảnh Đức. Tuy nhiên, xu
hướng biểu hiện chủ nghĩa (expressionist tendency) vẫn phảng phất trong
nhiều phim Đức ở thập niên tiếp theo. Tầm ảnh hưởng còn lan đến Hollywood đặc
biệt ở thể loại phim kinh dị (horror film) và phim đen (noir film)
- nhất là trong khâu dàn dựng khung cảnh và ánh sáng. Sức sống của sáng tạo
chính là ở đó: ngay cả khi những tuyên ngôn về cái Mới đã chìm khuất vào lãng
quên, thì tiếng vọng và tinh thần cách tân của nó vẫn tiềm ẩn trong những gì
còn lại. Nói theo kiểu Bakhtin khi bàn về vai trò của tiểu thuyết với các thể
loại sinh thành trước nó: trong thời đại phim Biểu hiện Đức ra đời (cũng như
phim Siêu thực Pháp, phim Tân hiện thực Ý, phim Montage Xôviết…), nghệ thuật cổ
điển Hollywood không thể tồn tại theo một kiểu thức “như xưa” nữa mà đã “vang
âm theo một cách hoàn toàn khác trước”. Vì chỉ có sáng tạo mới đánh thức được
sáng tạo, và cũng chỉ có sáng tạo mới làm nên sự đa sắc đa thanh của thế giới
nghệ thuật ./
.
Hà Nội 06/7/2007
số 14.2007, tr.14-17.
No comments:
Post a Comment