Khi tôi viết những dòng này, tôi hầu
như không cần nỗ lực để nhớ lại – mà chính xác hơn, nó cũng không phải là sự
“nhớ lại”. Nhớ lại, với tôi, dường như nó là từ để dành cho những kí ức đã
thực sự là kí ức, đã được “khái niệm hóa”, đóng hộp, dán nhãn, đã được sắp xếp
cho một chỗ nào đó trong bộ nhớ, trở thành một nếp nhăn cụ thể trên vỏ não. Sự
nhớ lại không bao giờ chính xác, sự nhớ lại bao giờ cũng đồng nghĩa với sự tái
tạo lại, sắp xếp lại. Với tôi, khi ở giữa những dòng này, tôi chỉ là đặt những
gì đang bao quanh tôi, bên trong tôi, dưới lớp ý thức của tôi - ra trang giấy,
những hình ảnh thường trực ở đó, luôn luôn ở đó, rõ ràng và sắc nét nhưng lại
không dễ để vẽ lại bằng một bản phác thảo với những khuôn dạng và hình khối thông
thường. Giống như bút không thể theo kịp hình, bởi hình đó không phải một “mẫu
vẽ”, mà nó là hình hài đang sống, đang quậy cựa, đang rung rinh, run rẩy, với
những đường nét trồi lên rồi lặn xuống, có những lúc ta ngỡ đã nắm bắt được rồi
thì chúng lại vuột đi không cách nào tìm lại. Bởi vì, ngay ở giây sau đó, mà
không hẳn, ngay cùng khoảnh khắc một phần ngàn giây đó, đường nét ấy đã/đang trở
thành một vật/bản thể khác hẳn với nó rồi.
Đó là thế giới mà điều duy nhất tôi có
thể nói về nó – là tôi đã thấy mình thuộc
về nó – dù chỉ trong khoảnh khắc. Nhưng với tôi, một giây thôi đã là đủ, mà
có khi cả trăm năm vẫn là thiếu - chúng ta có bao giờ đo đếm được lượng thời
gian chính xác cần thiết cho một nhu cầu hay trạng thái tinh thần? Nó như ánh
sáng chỉ rọi tới duy nhất một lần, đến đúng lúc và tan đi vừa vặn, để ta kịp
đón lấy nó, để nó khai tâm mở trí, để nó đủ làm mờ biên giới giữa tim và óc, giữa
năm tháng và nơi chốn, giữa tuổi tác và trải nghiệm – nó là một khoảnh-khắc-kéo-dài-mãi-mãi…
Đó là thế giới mà, tôi đã đi xa khỏi sự hiểu, chính xác hơn, tôi đã đi xa khỏi
cái khát vọng cồn cào trong tôi từ nhỏ cho đến bây giờ: khát vọng được hiểu mọi
điều.
Đó là thế giới mà, khi bắt đầu hành
trình từ một cánh cửa hẹp của nó, tôi đã được chỉ cho và được nhìn thấy những
cánh cửa vô hình dẫn sang nhiều thế giới khác – chính xác hơn là một đa – thế - giới – khác. Rồi sau đó, tôi
trở lại nơi xuất phát - nơi tôi chỉ tồn tại mà chưa thực sự sống, chỉ nhìn mà
chưa thực sự cảm nhận, chỉ nghĩ mà chưa thực sự quán tưởng, nơi tôi lúc nào
cũng chỉ chăm chăm ngoái về quá khứ và lo âu về tương lai mà chưa bao giờ hiểu
rằng cái duy nhất mình có là Hiện tại. Nhưng khi trở lại, tôi cũng mang theo một câu hỏi mà trước đây, trước những
cuộc hành trình như thế này, tôi chưa từng tự hỏi mình: Và sau chót, ở tận cùng lý tính, khi lý trí của chúng ta đi đến điểm cực
hạn, đó sẽ là điều gì?
Từ khi rời khỏi chuyến đi, tôi thấy
mình có nhiều cách giao tiếp hơn với những gì mà tôi đã trải: những mối quan hệ
“kỳ lạ”, những câu chuyện “phi lý” nếu người khác vô tình nghe được, những giấc
mơ trở đi trở lại về vùng đất cổ mà tôi đã từng đi qua, cách tôi ăn, uống, nói và
thở, cách tôi nhìn và cảm nhận về những người thân thuộc… Có một đổi thay nào
đó lặng lẽ, như nước dâng dần lên trong cái bình tôi, mà chính tôi cũng không
thể cắt nghĩa cho rõ ràng. Đôi khi tôi thấy mình đang hân hưởng điều đó với một
niềm tin lạ lùng mà không hề chất vấn, như hân hưởng một phúc-lành, như đón nhận
một điều-thiện. Dưới cái ánh sáng riêng của nó, tôi chỉ có thể âm thầm tiếp lấy,
hòa tan nó vào sâu trong mình, mà không một chút bận tâm rằng đời sống hàng
ngày xung quanh thực ra vẫn trôi đi theo cái cách mà nó vốn như thế: ồn ào,
quay cuồng, náo động, quẩn quanh…
Tôi muốn nói về giấc mơ của tôi, những
giấc mơ gần như lặp lại rất nhiều – về Cát Tiên – nơi chúng tôi chỉ dừng lại một
đêm ngắn ngủi và tạm biệt trong trạng thái vội vã, dở dang…
Cát Tiên, không chỉ là vùng đất thánh
với những dấu vết huy hoàng của một nền văn minh cổ xưa rực rỡ, của những hoa
văn, ảnh tượng, đền đài,… Cát Tiên còn là cánh rừng đêm xa lạ nơi tôi đã có vài
lần đi xuyên qua một chặng của nó mà không cảm thấy sợ hãi như nhẽ ra tôi phải
thế, là những bụi hoa trắng nở trên thân cây tím dọc những lối đi kỳ lạ - loài
hoa không biết tên mà tôi đã được hạnh ngộ một lần nữa ở Cambodia, trước bậc thềm
của cánh cổng bước vào khu đền Angkor Borei. Cát Tiên còn là trạng thái bất an
đầy dò xét giữa người và rừng, giữa người và nước khi phà đi qua sông trong đêm
đen đặc quánh, là bến đò buổi sớm lấp lánh mặt sông như một lời chào ấm áp tin
tưởng… Cát Tiên cũng là những câu hỏi chưa có lời giải đáp: con người ở đâu nơi
vùng đất xa xưa này, ai là những cư dân thực sự từng gắn liền với thánh địa, vì
sao không một mộ táng được tìm thấy nơi đây?
Và trong giấc mơ, tôi cứ luôn thấy tôi
trở về lại nơi ấy, trong tâm trí vẫn biết đó là Cát Tiên – mà cảnh trí trong mơ
lại không có một dấu vết nào thân quen của những gì tôi đã từng nhìn thấy: bãi
đất trắng mênh mông không có đường chân trời, tất cả dềnh lên như một con thuyền
lớn trôi trên một mặt nước ngầm kín bên dưới. Còn bí mật nào nơi ấy, còn một
Cát Tiên nào khác nơi ấy khiến một phần khác của tôi cứ muốn trở lại, thăm tìm?
Tôi lại muốn nói về Tà Keo, về Angkor
Borei, như một giấc mộng đẹp huy hoàng đổ đầy mọi giác quan của tôi - nhưng chỉ
có thể trải qua một lần duy nhất trong đời. Và, khác với Cát Tiên, sau chuyến
đi tôi cũng không thấy nó hiện ra trong giấc mơ của mình một lần nào nữa.
Có điều gì trong giấc-mộng-giữa-ban-ngày
ấy? Một ngày nắng gay gắt đến rát bỏng, một ngày dòng sông mùa nước lớn đổ tràn
các bờ ruộng bờ kênh – dẫu chẳng xa khu dân cư mà vẫn tĩnh lặng đến lạ lùng?
Có điều gì tràn trề ở đó? Là ánh sáng.
Một thứ ánh sáng có tâm trí, rất sống động, sắc nét, biết dẫn đường, biết trò
chuyện, một thứ ánh sáng như thể làm mờ và thậm chí làm tắt đi mọi tạp âm xung
quanh…
Bầu trời mang ánh sáng, dòng sông hừng
ánh sáng, đến những bông lau, khóm hoa, nhánh cỏ ven đường, cái thuyền nhỏ cũ
kĩ đứng chơ vơ… cũng đều có quầng sáng của riêng mình. Ánh sáng mở những chốt
cài của các vùng không gian, như một sự cho phép của những chủ nhân nơi này với
những vị khách đến từ phương xa, là chúng tôi. Ánh sáng chỉ đường cho đoàn thuyền,
ánh sáng tỏa rạng từ phía đám mây ngũ sắc trên chiếc thuyền đi đầu và người dẫn
đầu – tất cả hiện lên như một đám rước, như một nghi lễ nào đó đang được cử
hành trang trọng trong không gian.
Từ trong sâu thẳm lòng mình, tôi trò
chuyện với dòng sông, tôi thầm thì với nắng, với những tia sáng, tôi cảm nhận
mùi hương riêng của chốn này, của bùn, của nước, của hơi nóng, có cái gì đó
đang tan chảy… khi tôi nhắm mắt lại. Thế giới từ phút ấy đã chẳng còn là nó như
trước đây, thế giới thả lỏng mình, thả lỏng tôi, thả lỏng các chiều không thời
gian của nó, để cùng một lúc, tôi được sống ở bên ngoài bầu trời, bên ngoài
dòng sông, bên ngoài những tiếng động của sóng và động cơ con thuyền đang xé
gió lướt đi... Đó là thời khắc tôi nhận lấy cho riêng tôi, thời khắc để tôi đắm
nhập vào một hiện tại khác, để tôi kết nối những mất mát, những vết rạn chưa
lành, những nỗi thống khổ, những giấc mơ khô khốc chẳng bóng hình thân quen với
cái tôi đang ngồi đây trên chiếc thuyền an nhiên lướt đi giữa trời và đất.
Có phải thời khắc ấy đã hóa thành một
thời khắc thiêng, và làm thế nào để
tôi – cái tôi trần tục và run rẩy của thực tại này – có thể đối diện với nó? Và
nếu đó là bạn, thì bạn sẽ như thế nào? Làm
sao, con người nhỏ bé, đơn độc và hữu hạn, có thể đối mặt với cái vô hạn, với
vũ trụ, cái bí ẩn tận cùng… chỉ bằng các giác quan thường hay lầm lạc của nó,
trong lớp bụi ánh sáng, dưới bầu trời cao vòi vọi với những dải màu lấp lánh biến
thiên theo từng khoảnh khắc?
Bạn sẽ thấy rằng đang có một cuộc đối thoại trong im lặng được thiết lập, như có bàn
tay xoa dịu và có giọng nói nào đó chạm vào bạn; giọng nói ấy không hỏi bạn –
vì sao bạn cứ mãi đau buồn, bạn đang tỉnh hay thức, bạn đang mong muốn điều
gì,… Giọng nói chỉ đơn giản vang lên từ sâu thẳm trong bạn, chạm vào tâm thức bạn,
lay động bạn nhẹ nhàng, việc của bạn chỉ là mở cửa tâm trí, yên ắng đến tận
cùng để lắng nghe cho được âm thanh vô
thanh của nó. Và khi ấy, như một thứ nghi lễ của riêng bạn và chỉ dành cho
bạn, nước mắt bạn sẽ chảy ra ào ạt như một khối kết tụ lâu ngày bị tan ra, bạn
thấy mình nhẹ nhõm đến mức mất cảm giác về trọng lượng, về cơ thể, dù mọi điều
đều đi vào qua cánh cửa cơ thể bạn: làn da bạn, đôi mắt bạn, sợi tóc bạn, nhịp
thở của bạn… Thời khắc bạn cảm nhận rõ nhất về cơ thể mình, râm ran đến từng mạch
máu, cũng là thời khắc bạn lắng nghe trọn vẹn nhất sự thanh hư, tĩnh tịch, vượt
thoát của tâm can. Lúc đó bạn là ai, bạn đang ở đâu, phía sau và phía trước bạn
là gì, nỗi đau và hạnh phúc nào đang ở bên bạn, có lẽ cũng không còn là những
chất vấn cồn cào như trước nữa?
Rõ ràng, Vô hạn và Vũ trụ, cái Thiêng
và cái Trác Tuyệt, những phạm trù dường như đều vượt khỏi tầm nhận thức và giới
hạn giác quan của một con người, nhưng nếu bạn có thể thành thực và sẵn sàng “kết
nối” – dù chỉ trong một phần nghìn giây, bên trong bạn cõi thinh lặng sẽ mở ra
để đón nhận tất cả, toàn vẹn, sâu thẳm, trọn đầy, giống như một hạt sương soi
được cả bầu trời, một giọt nước thấy được biển cả, một hạt cát nói được hết cuộc
đời sa mạc mênh mông…
Bởi vì, ở điểm cực hạn của lý trí, đó
là gì nếu không phải là sự siêu vượt lý
trí, là trực giác, là chứng ngộ tỏa rạng không cần bất kỳ nguyên do và logic lý
tính nào?
Bởi vì, bí ẩn lớn nhất của cõi đời này
là chúng ta không bao giờ có thể biết rằng thế giới này còn bao nhiêu điều bí ẩn,
hoặc ta nên đối diện hay trốn chạy những điều bí ẩn như thế nào. Ta chỉ có thể
đơn giản là chấp nhận, và thôi không đày
ải mình bằng việc đi tìm nguyên do của mọi sự - một công việc giống như thần Sisyphus
vĩnh viễn mắc kẹt với hình phạt lăn đá lên/xuống ngọn đồi? Điều bí ẩn vẫn ở đó,
để nhắc con người về giới hạn của mình, và về cả sự vô giới hạn của mình. Con
người lý trí hay logic bao nhiêu, dễ hoài nghi và hay đặt câu hỏi bao nhiêu, sẽ
càng bị cuốn hút mạnh mẽ bởi những điều bí ẩn bấy nhiêu – như một cực trái dấu
cứ hút nhau như định mệnh…
Điều bí ẩn giúp ta soi rọi lại những
điều ta đã đoan chắc rằng mình thấu hiểu từ lâu – để ta thực sự nhận ra giá trị
của chúng, để ta thấy hóa ra sống không mòn mỏi và đáng thất vọng, hoặc cũng
không sẵn có và đương nhiên là thế như ta (và nhiều người) lầm tưởng.
Điều bí ẩn mở ra những điều bí ẩn.
Luôn có những món quà cho mỗi người ở
phía của điều bí ẩn mà họ tìm thấy, ngay cả khi họ bé nhỏ, họ thất bại, thậm
chí họ mất tiếng nói… giữa thế giới sáng
rõ như ban ngày của những người khác, trong thời đại có quá nhiều giọng nói
quan trọng và quá nhiều gương mặt chói lọi này.
Hà Nội, 22.2.2017
C.G
Note này viết sau Cuca Artour Funan (26.12.2016 - 4.1.2017) gần
hai tháng, và cũng là những xúc cảm thường trực của tôi suốt chuyến đi cho đến
bây giờ…
Thân quý dành tặng CUCA và các anh chị, các bạn đồng hành của tôi…